Trang thông tin điện tử

Phổ biến,giáo dục pháp luật tỉnh Quảng Ngãi

A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Một số nội dung quan trọng của Nghị quyết số 206/2025/QH15 ngày 24/6/2025 của Quốc hội về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn

Ngày 24/6/2025, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 206/2025/QH15 về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật (viết tắt là Nghị quyết số 206/2025/QH15) và có hiệu lực thi hành từ ngày được thông qua đến hết ngày 28/02/2027. Nghị quyết số 206/2025/QH15 được ban hành là một bước đột phá trong công tác hoàn thiện thể chế để tháo gỡ các “điểm nghẽn” do quy định của pháp luật gây kìm hãm, ách tắc, cản trở phát triển kinh tế - xã hội, qua đó, huy động các nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Nhằm đẩy mạnh công tác phổ biến, truyền thông rộng rãi nội dung Nghị quyết số 206/2025/QH15 đến đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, tác giả xin giới thiệu một số nội dung quan trọng của Nghị quyết số 206/2025/QH15 như sau:

Thứ nhất, về tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật (Điều 2)

Khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật được xác định theo một trong các tiêu chí sau đây mà gây kìm hãm, ách tắc, cản trở phát triển kinh tế - xã hội:

1. Quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật;

2. Quy định của văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau, không hợp lý, không khả thi, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật;

3. Quy định của văn bản quy phạm pháp luật tạo gánh nặng chi phí tuân thủ; chưa có quy định hoặc có quy định của văn bản quy phạm pháp luật nhưng hạn chế việc đổi mới sáng tạo, phát triển động lực tăng trưởng mới, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế.

Thứ hai, nguyên tắc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật (Điều 3)

1. Thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng; bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

2. Bảo đảm công khai, minh bạch; kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ.

3. Xử lý nhanh chóng, kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm các vấn đề cấp bách của thực tiễn, đưa pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh.

4. Không trái với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xà hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

5. Bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp, đặc biệt là các quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản và quyền tự do hợp đồng; không tăng trách nhiệm bất hợp lý cho người dân, doanh nghiệp.

Thứ ba, phương án xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật (Điều 4)

1. Khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật được xử lý theo các phương án sau đây:

a) Giải thích luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định tại Điều 60 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 61 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật;

b) Ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn để quy định vấn đề mới, sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế quy định hiện hành theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật;

c) Ban hành nghị quyết của Chính phủ, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội chưa được sửa đổi, bổ sung, thay thế theo phương án quy định tại điểm b khoản này.

2. Trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội chưa được sửa đổi, bổ sung, thay thế theo phương án quy định tại điểm b khoản 1 Điều này, Chính phủ được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định của luật, nghị quyết do Chính phủ trình, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại phiên họp, kỳ họp gần nhất và thực hiện như sau:

a) Trường hợp ban hành nghị quyết của Chính phủ dẫn đến đồng thời phải sửa đổi, bổ sung luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không do Chính phủ trình thì cơ quan chủ trì soạn thảo phải xin ý kiến của cơ quan trình luật, pháp lệnh, nghị quyết đó và Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi ban hành;

b) Trường hợp ban hành nghị quyết của Chính phủ có nội dung điều chỉnh vấn đề chưa được luật, nghị quyết của Quốc hội quy định hoặc tác động lớn đến kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại thì phải xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền của Đảng trước khi ban hành;

c) Trường hợp ban hành nghị quyết của Chính phủ dẫn đến đồng thời phải sửa đổi, bổ sung nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ thì quy định nội dung sửa đổi, bổ sung đó ngay trong nghị quyết của Chính phủ;

d) Nghị quyết của Chính phủ phải xác định rõ thời điểm hết hiệu lực thi hành nhưng phải trước ngày 01/3/2027; danh mục văn bản quy phạm pháp luật và điều, khoản, điểm được đề xuất sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ.

Nghị quyết của Chính phủ dược ban hành theo quy định tại khoản này được đánh số, ký hiệu riêng để theo dõi, xử lý. Số, ký hiệu của nghị quyết bao gồm: số được ghi bằng chữ số Ả Rập, thứ tự được đánh liên tiếp theo các năm, bắt đầu từ 66.1; năm ban hành nghị quyết; ký hiệu là NQ-CP. Sau từ “số” có dấu hai chấm (:), giữa số nghị quyết, năm ban hành và ký hiệu có dấu gạch chéo (/). Ví dụ: Nghị quyết số: 66.1/2025/NQ-CP.

3. Trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội không do Chính phủ trình chưa được sửa đổi, bổ sung, thay thế theo phương án quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định của luật, nghị quyết và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải xác định rõ thời điểm hết hiệu lực thi hành nhưng phải trước ngày 01/3/2027; danh mục luật, nghị quyết của Quốc hội và điều, khoản, điểm được đề xuất sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ.

Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được ban hành theo quy định tại khoản này được đánh số, ký hiệu riêng để theo dõi, xử lý. Số, ký hiệu của nghị quyết bao gồm: số được ghi bằng chữ số Ả Rập, thứ tự được đánh liên tiếp theo các năm, bắt đầu từ 66.1; năm ban hành nghị quyết; tên viết tắt của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và số khóa Quốc hội. Sau từ “số” có dấu hai chấm (:), giữa số nghị quyết, năm ban hành và ký hiệu có dấu gạch chéo (/). Ví dụ: Nghị quyết số: 66.1/2025/UBTVQH15.

Thứ tư, quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật (Điều 5)

1. Cơ quan ban hành hoặc cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm nghiên cứu chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền, kiến nghị, phản ánh của cơ quan, tổ chức, cá nhân, rà soát, xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật và phương án xử lý khó khăn, vướng mắc theo nguyên tắc quy định tại Nghị quyết này.

2. Trường hợp Chính phủ ban hành nghị quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Nghị quyết này thì thực hiện theo quy định sau đây:

a) Cơ quan chủ trì soạn thảo xây dựng hồ sơ dự thảo nghị quyết gửi Bộ Tư pháp để thành lập Hội đồng thẩm định độc lập thẩm định trước khi trình Chính phủ, đồng thời đăng tải lên cổng thông tin điện tử của cơ quan chủ trì soạn thảo và Cổng Pháp luật quốc gia.

Hồ sơ gửi thẩm định gồm: dự thảo tờ trình; dự thảo nghị quyết; bản so sánh quy định của dự thảo nghị quyết với các quy định hiện hành và lý do đề xuất điều chỉnh; báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của các Bộ, ngành có liên quan và tài liệu khác (nếu có);

b) Hội đồng thẩm định độc lập có trách nhiệm thẩm định trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ dự thảo nghị quyết.

Nội dung thẩm định bao gồm: tiêu chí, nguyên tắc, phương án, quy trình xử lý khó khăn, vướng mắc theo quy định tại Nghị quyết này và các nội dung thẩm định quy định tại các điểm a, b, d, đ và e khoản 4 Điều 34 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật;

c) Báo cáo thẩm định phải thể hiện rõ dự thảo nghị quyết đủ hoặc chưa đủ điều kiện trình Chính phủ; ý kiến tham gia của đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ Khoa học và Công nghệ, Văn phòng Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội có liên quan, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trường hợp báo cáo thẩm định kết luận dự thảo nghị quyết chỉ đủ điều kiện trình Chính phủ sau khi tiếp thu, hoàn thiện thì phải nêu rõ nội dung, yêu cầu tiếp thu, hoàn thiện. Báo cáo thẩm định được gửi đến cơ quan chủ trì soạn thảo.

Trường hợp dự thảo nghị quyết chưa đủ điều kiện trình Chính phủ, cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu chỉnh lý dự thảo nghị quyết và gửi hồ sơ đến Bộ Tư pháp để tổ chức thẩm định lại. Việc thẩm định lại được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này;

d) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng thẩm định độc lập, cơ quan chủ trì soạn thảo chỉnh lý, hoàn thiện hồ sơ dự thảo nghị quyết trình Chính phủ xem xét, thông qua. Hồ sơ trình gồm: các tài liệu quy định tại điểm a khoản này, báo cáo thẩm định và báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định;

đ) Chính phủ xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ quy định tại điểm d khoản này.

3. Bộ trưởng Bộ Tư pháp thành lập Hội đồng thẩm định độc lập gồm: Chủ tịch Hội đồng là Lãnh đạo Bộ Tư pháp, thành viên Hội đồng là đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ Khoa học và Công nghệ, Văn phòng Chính phủ, các cơ quan có liên quan của Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Căn cứ nội dung của dự thảo nghị quyết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định mời đại diện các Bộ, cơ quan ngang Bộ, chuyên gia, nhà khoa học và cơ quan, tổ chức khác tham gia Hội đồng thẩm định độc lập.

4. Thành viên Hội đồng thẩm định độc lập có ý kiến về các nội dung thẩm định theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này, trong đó phải có ý kiến về các nội dung sau đây:

a) Thành viên Hội đồng thẩm định độc lập là đại diện các Bộ, cơ quan ngang Bộ chịu trách nhiệm về ý kiến thẩm định thuộc phạm vi quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực của cơ quan mình. Đại diện Bộ Ngoại giao có ý kiến về tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có ý kiến về bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh; đại diện Bộ Tài chính có ý kiến về nguồn tài chính; đại diện Bộ Nội vụ có ý kiến về việc phân quyền, phân cấp và nguồn nhân lực; đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ có ý kiến về việc ứng dụng, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; đại diện Bộ Tư pháp có ý kiến về tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật;

b) Thành viên Hội đồng thẩm định độc lập là đại diện các cơ quan của Quốc hội có ý kiến về nội dung dự thảo nghị quyết thuộc lĩnh vực được giao phụ trách; đại diện Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có ý kiến về nội dung dự thảo nghị quyết liên quan đến nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

5. Bộ Tư pháp là cơ quan Thường trực của Hội đồng thẩm định độc lập. Hội đồng thẩm định độc lập được sử dụng con dấu của Bộ Tư pháp.

6. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng thẩm định độc lập./.


Tác giả: Lệ Quỳnh

Thống kê truy cập

Đang online: 1
Hôm nay: 80
Hôm qua: 412
Năm 2025: 2.467.506
Tất cả: 2.467.506